Những thành phần trong Mầu nhiệm Thánh Lễ Thánh Lễ là trung tâm phụng tự
của Giáo hội v́ đây là việc tưởng niệm
ơn Cứu Chuộc của Chúa Giêsu qua mầu nhiệm
Giáng sinh, Tử nạn, và Phục sinh của Người. Đối với người
Công giáo, Thánh Lễ là kết nối của những mầu
nhiệm Thánh Thể. Mỗi Thánh Lễ, giáo dân được
Chúa Giêsu mời gọi tham dự bàn tiệc hy tế.
Nơi đó, Chúa ban Lời Chúa và Ḿnh Máu Thánh Chúa và chúc b́nh
an rồi sai đi rao truyền Tin Mừng cho người chung quanh. Sau một, vài ngày, hay một tuần,
người tín hữu được Chúa Giêsu mời trở
lại bàn tiệc thánh để lập lại một chu kỳ mới. Thánh Lễ là sự hiệp
thông giữa Triều thần Thiên quốc, Giáo hội Ly trần
và Giáo hội Lữ hành. Thánh Lễ là sự
hiệp thông giữa con người và Chúa Cha qua trung gian
Chúa Giêsu hợp cùng Chúa Thánh Thần. Thánh lễ c̣n là bí tích
ḥa giải mà Thiên Chúa ban cho loài người và c̣n là cơ hội
để con cái Chúa nơi trần thế ḥa giải với
nhau. Trong Thánh Lễ, Hy tế là sự
hiện diện thực sự của Chúa Giêsu qua bánh rượu
được tác động bởi Chúa Thánh Thần để
trở thành Ḿnh Máu Thánh Chúa làm lễ vật dâng lên Thiên Chúa
Cha. Chủ tế cũng chính là Chúa Giêsu cử hành qua tay các Thầy Cả đă được
thánh hiến. Thánh Lễ là một kho tàng vô giá
mà Chúa Giêsu đă để lại trần gian trước
khi về trời. Và Thánh Lễ là một ân sủng nên phúc cho ai tham dự tiệc Chiên
Thiên Chúa. Trong bảy phép Bí tích mà Giáo hội
thành lập th́ Bí tích Ḿnh Máu Thánh Chúa cử hành trong Thánh Lễ
được coi là cao trọng nhất, c̣n gọi là Bí
tích Cực Thánh. Ư Nghĩa của Thánh Lễ 1)
Hy lễ thánh: Thánh lễ nhằm
hiện tại hóa hy lễ của Chúa Kitô dâng một lần
duy nhất trên thập giá xưa để cứu độ
nhân loại từ lúc tạo thiên lập địa đến
ngày Chúa quang lâm. Giá trị của Thánh lễ
hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô, Ngài hiện diện qua Lời
Chúa khi được công bố qua vai tṛ của thừa
tác viên nơi bàn thờ và nơi của lễ. 2) Bàn tiệc
thánh:
Thánh lễ được gọi là bữa ăn
của Chúa nơi đó con người được mời
gọi tham dự bàn tiệc thần linh. Nhờ
rước Ḿnh và Máu Chúa Kitô chúng ta đón nhận sự sống
đời đời, từ đó đời sống
đức tin được tăng trưởng luôn măi. 3) Cuộc
tưởng niệm: Thánh lễ tưởng niệm
Chúa Kitô chịu chết và sống lại. Khi tưởng
niệm, một đàng Giáo Hội xác tín vào biến cố
Vượt qua của Chúa Kitô mang giá trị cứu độ,
đàng khác Giáo Hội khám phá và tạ ơn Thiên Chúa v́ lịch
sử cứu độ đă hoàn tất viên măn nơi biến
cố vượt qua của Chúa Kitô. Tưởng niệm
không mang nghĩa kỷ niệm thụ động, nhưng
là hồi tưởng một công tŕnh của Thiên Chúa trong
quá khứ, để rồi hiện tại hóa công tŕnh
đó trong đời sống đức tin, nhờ sự
hiện diện của Chúa Kitô. 4) Nghi lễ bẻ
bánh:
Thánh lễ là nơi Chúa Kitô trao ban chính ḿnh cho nhân loại
khi Ngài cầm lấy bánh bẻ ra trao cho các môn đệ. Thánh lễ là tham dự vào một tấm bánh duy nhất
là Chúa Kitô. Thật vậy, khi tham dự
vào tấm bánh duy nhất đó, người tín hữu biểu
lộ sự hiệp nhất và kiến tạo đời
sống hiệp thông trong Giáo Hội. 5) Mầu nhiệm
Đức tin và Cực thánh: Con người chỉ có thể
tham dự thánh lễ trong đức tin. Giáo Hội
tin làm sao cử hành làm vậy. Thánh lễ
được gọi là mầu nhiệm cực thánh và là
tâm điểm của tất cả phụng vụ Kitô
giáo. 6) Thánh lễ gắn
liền với sứ mạng truyền giáo: Truyền giáo
là làm cho muôn dân nhận biết Chúa Giêsu, Đấng cứu
độ. Thánh lễ cho chúng ta gặp gỡ
Chúa Giêsu, để từ cảm nghiệm này người
tín hữu sẽ dẫn người khác đến gặp
gỡ Ngài. Kết thúc Thánh lễ không phải
là hoàn tất một công việc phải làm cho xong, nhưng
là khởi đầu một sứ vụ mới, sứ vụ
truyền giáo. Nghĩa là Thánh lễ thúc giục chúng ta
lên đường đến với người khác để
làm cho họ nhận biết Chúa Giêsu và từ đó họ
chọn lựa để theo Ngài. Thành phần của Thánh Lễ 1) Nghi thức
mở đầu: Chuẩn bị và tập hợp cộng
đoàn nhằm mục đích giúp các tín hữu hiệp
thông với nhau. Chuẩn bị tâm hồn
để lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh lễ
cho xứng đáng. Nghi thức mở đầu gồm : a) Ca nhập
lễ:
Bài hát đi kèm cuộc rước chủ tế ra bàn thờ
để mở đầu Thánh lễ, giúp cộng đoàn
hiệp nhất với nhau và hướng tâm hồn họ
vào mầu nhiệm sắp được cử hành trong
Thánh lễ (RM 47). b) Chủ tế
chào bàn thờ:
Qua 2 hành động cúi ḿnh sâu trước bàn thờ và hôn
bàn thờ, đây là dấu chỉ kính trọng và tôn kính
Chúa Kitô. Sau đó ngài chào giáo dân để nói lên sự hiện
diện của Chúa ở giữa cộng đoàn, đồng
thời diễn tả mầu nhiệm Giáo Hội quy tụ
và hiệp nhất trong việc cử hành phụng vụ
thánh (RM 49–50). c) Nghi thức
sám hối và kinh Thương xót: Nhấn mạnh vào ḷng
thương xót của Chúa Giêsu đối với giáo dân là
các tội nhân. Nhờ t́nh thương của
Ngài mà chúng ta được thanh tẩy để xứng
đáng tham dự vào việc cử hành thánh lễ. d) Kinh Vinh
danh:
Lời kinh cổ kính nhằm tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi
được Giáo Hội dùng để diễn tả niềm
vui và hân hoan và sự trang trọng dâng lên Chúa. Kinh
này được hát trong các Chúa Nhật ngoài Mùa Vọng và
Mùa Chay. C̣n được hát trong các lễ
trọng, lễ kính và những dịp đặc biệt
(RM 53). e) Lời
nguyện nhập lễ (lời tổng nguyện): do chủ tế
đọc, lời nguyện của tất cả cộng
đoàn và mọi người đều tham dự vào lời
nguyện này. V́ thế khi chủ tế kết thúc lời
nguyện mọi người đáp “Amen” nói lên sự tán
đồng và chấp nhận lời nguyện ngài vừa
dâng lên cũng là lời của chúng ta. 2) Phụng
vụ Lời Chúa: Gồm các bài đọc trích từ
Kinh Thánh. Thông thường có 3 bài đọc
trong các Chúa Nhật và lễ trọng. Bài 1 thường
trích từ Cựu Ước (trừ Mùa Phục Sinh trích từ
Công vụ Tông đồ), bài 2 từ các thư trong Tân Ước
và bài 3 trích từ các sách Tin Mừng. Trong ba bài th́ bài Tin Mừng
chiếm vị trí ưu tiên và là cao điểm của phụng
vụ Lời Chúa (RM 60). a) Đáp ca: Là phần dân
Chúa đáp lại Lời Chúa sau khi nghe Ngài nói. Đáp ca
được trích từ các Thánh vịnh hay Thánh ca Cựu
Ước hoặc Tân Ước. Những bài đáp ca này
có liên hệ trực tiếp đến các bài sách Thánh
được đọc trong Thánh Lễ. b) Bài giảng: Một thành phần
của cử hành phụng vụ nhằm nuôi dưỡng
đời sống tín hữu. Ngoài diễn giảng
thông thường là chủ tế, cũng có thể là một
vị đồng tế hoặc phó tế, nhưng không bao
giờ là giáo dân. c) Kinh Tin Kính: Là hành động
đáp lại Lời Chúa. Là bản tuyên
xưng đức tin mà mọi người tín hữu cùng
nhau tuyên xưng trước khi cử hành Thánh lễ.
Kinh Tin Kính được mọi người cùng đọc
hoặc hát chung. d) Lời nguyện chung: Là Lời nguyện tín hữu. Nhắc
đến chức tư tế phổ quát của mọi
tín hữu để cầu nguyện cho hết mọi
người. Chủ tế đọc lời
mời gọi và lời nguyện kết thúc. Xướng viên đọc các ư nguyện, c̣n cộng
đoàn biểu lộ tâm t́nh bằng câu đáp sau mỗi lời
nguyện hoặc giữ thinh lặng cầu nguyện (RM
71). 3) Phụng
vụ Thánh Thể: Khi cử hành Phụng vụ
Thánh Thể, Giáo Hội thực hiện lệnh truyền của
Chúa Kitô “Hăy làm việc này mà nhớ đến Thầy” Chính
Chúa Kitô hiện diện khi Giáo Hội cử hành Thánh Thể
để hiện tại hóa hy lễ của Ngài, v́ vậy
cấu trúc của phụng vụ Thánh Thể được
sắp xếp để làm nổi bật lời nói và hành
động của Chúa Kitô. Phụng vụ Thánh Thể gồm
ba phần: a) Chuẩn bị lễ vật: Bắt đầu từ lúc đem bánh rượu
lên bàn thờ đến hết lời nguyện trên lễ
vật. Nghi thức này nhấn mạnh yếu
tố vật chất bánh và rượu đă được
Chúa Kitô dùng để biến thành Ḿnh và Máu Ngài. Đồng
thời cũng cho thấy con người được mời
gọi cộng tác vào hy tế của Chúa Kitô trong Thánh Thể.
Bằng cách dâng tiến hoa quả của sức cần lao, cũng như những đóng góp của
ḿnh để trợ giúp người nghèo và các việc thiện
ích của Giáo Hội. i) Xin tiền: h́nh thức
đơn giản của việc dâng lễ vật thời
xưa. Lúc đó dân Chúa tham dự thánh lễ
ai cũng đem góp phần ḿnh bằng các sản phẩm
nông nghiệp. Đóng góp là cử chỉ hiệp thông,
là dấu chỉ bề ngoài của t́nh liên đới trong
đời sống Giáo Hội và nhân loại, và là góp phần
ḿnh trong việc thăng tiến thân thể nhiệm mầu
của Chúa Kitô. ii) Xông hương: chủ tế
xông hương lễ vật, thánh giá và bàn thời diễn
tả lễ vật với lời nguyện của Giáo Hội
ví như hương trầm bay lên trước tôn nhan uy
linh Chúa. Chủ tế, các linh mục đồng
tế (nếu có) và các tín hữu cũng được
xông hương nói lên phẩm giá của những người
đă lănh nhận bí tích Thanh Tẩy. iii) Rửa tay: chủ tế rửa tay biểu lộ ḷng ao ước
được thanh tẩy tâm hồn để xứng
đáng cử hành mầu nhiệm cực thánh. b) Kinh nguyện Thánh Thể: Là Kinh Tạ
Ơn. Là trung tâm và đỉnh cao của toàn bộ cử
hành Thánh Thể (RM 78). Nội dung của kinh Nguyện Thánh
Thể là tạ ơn và thánh hóa. Nghĩa là
toàn thể cộng đoàn tín hữu kết hiệp với
Chúa Kitô, qua vai tṛ chủ tế, để tạ ơn và
tuyên xưng các kỳ công của Thiên Chúa. Đồng thời xin ơn thánh hóa Giáo Hội.
Thành phần kinh nguyện Thánh Thể gồm tám yếu tố
chính sau đây : Lời Tiền tụng, Kinh Thánh Thánh Thánh,
Kinh Nài xin Chúa Thánh Thần xuống thánh hóa lễ vật,
Kinh Tưởng niệm, Lời Nguyện dâng tiến, Lời
Chuyển cầu trong mầu nhiệm hiệp thông của
Giáo Hội và Vinh tụng ca. i) Lời
tiền tụng: Bắt đầu bằng lời đối
thoại giữa chủ tế và cộng đoàn: “Chúa ở
cùng anh chị em. – Và ở cùng Cha. Hăy nâng tâm hồn
lên. – Chúng con đang hướng về Chúa. Hăy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta. – Thật là chính đáng”. Là lời mời gọi nhằm biểu lộ
tính duy nhất của cộng đoàn phụng tự trong lời
tạ ơn dâng lên Thiên Chúa. Việc hướng tâm hồn
lên là thái độ của con người được
phục sinh, của người chỉ t́m kiếm những
thực tại trên trời nơi Chúa Kitô đang ngự bên
hữu Thiên Chúa. Sau lời đối thoại, mọi lời
tiền tụng đều gồm ba phần rơ rệt : Lời tạ ơn Chúa Cha nhờ
Chúa Kitô, lư do tạ ơn hay dẫn chứng một khía cạnh
nào đó của mầu nhiệm đang được cử
hành, và câu dẫn vào kinh Thánh Thánh Thánh. ii) Kinh Thánh
Thánh Thánh:
Là lời tung hô chúc tụng Chúa
Cha nhưng cũng là lời tôn vinh Chúa Kitô khi Ngài tiến
vào thành Giêrusalem để hoàn tất cuộc vượt
qua của ḿnh. Giáo Hội đọc kinh này
trước phần truyền phép để nối kết
với cuộc vượt qua của Chúa Kitô mà khởi
đầu là bữa Tiệc ly. Tất cả cộng
đoàn cùng đọc hay hát kinh này. iii) Kinh nài xin
Chúa Thánh Thần: Nhấn mạnh vai tṛ của Chúa Thánh Thần
trong việc thánh hóa lễ vật trở nên Ḿnh và Máu Chúa
Kitô. Tác động của Chúa Thánh Thần
không thể thiếu trong cử hành thánh lễ. Ngài vừa là Đấng thánh hóa lễ vật vừa
là Đấng thánh hóa Giáo Hội, tức Thân Thể huyền
nhiệm của Chúa Kitô. Chính Ngài hiện
tại hóa hy lễ thập giá của Chúa Kitô và làm cho chúng
ta, khi tham dự Thánh Thể, được hiệp nhất
và yêu thương nhau. iv)
Tường thuật Chúa
Kitô thiết lập Bí tích Thánh thể: được
đọc trong thể văn trực tiếp như chính
Chúa Kitô đang cử hành. Giáo Hội tin thật
Chúa Kitô đang hiện diện và chính Ngài biến đổi
bánh và rượu trở nên Ḿnh và Máu Chúa. V́ thế sau lời nguyện truyền phép, bánh và
rượu không c̣n như trước nữa nhưng
đă trở nên Ḿnh và Máu đích thực của Chúa Kitô.
Sự hiện diện của Chúa Kitô trong h́nh
bánh và h́nh rượu có giá trị trường tồn sau
khi truyền phép. Do đó người tín hữu phải
tỏ ḷng tôn thờ và kính cẩn mỗi khi đến
trước Ḿnh và Máu Chúa Kitô. v) Kinh Tưởng
niệm:
Là kinh cộng đoàn đọc sau phần truyền
phép “Lạy Chúa chúng con loan truyền Chúa chịu chết
và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”.
Lời kinh này là lời tuyên xưng mầu nhiệm Thánh Thể.
Lời tuyên xưng này mang hai ư nghĩa: Khẳng định
gía trị hiến tế của Chúa Kitô trong mầu nhiệm
Vượt qua của Ngài và xác tín sự hiện diện
đích thực của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể. vi) Lời Nguyện
dâng tiến:
Là lời kinh chủ tế đọc sau kinh Tưởng
niệm “V́ thế lạy Cha, giờ
đây tưởng nhớ Con Cha đă chịu chết và sống
lại…" Lời nguyện này là lời nài xin Chúa Cha ban
Chúa Thánh Thần để Ngài thánh hóa Giáo Hội, Thân Thể
Chúa Kitô. Sự hiệp nhất của Giáo Hội
phát xuất từ hiến lễ của Chúa Kitô và là công
tŕnh của Chúa Thánh Thần. vii) Lời Chuyển
cầu trong mầu nhiệm hiệp thông của Giáo Hội: Là lời kinh
thường được các vị đồng tế
thay phiên đọc trong thánh lễ đồng tế. Lời kinh này nhắc đến mọi thành phần
dân Chúa. Những người đang sống như
Đức Giáo Hoàng, Đức Giám Mục, hàng giáo sĩ,
toàn thể dân Chúa (Giáo Hội lữ hành); những người
đă khuất như cha mẹ, anh chị em, bạn bè và mọi
tín hữu đă qua đời (Giáo Hội thanh luyện); và
nhắc đến Đức Mẹ Maria, các thánh tông đồ
và các thánh (Giáo Hội thiên quốc). viii) Vinh Tụng
ca:
Là lời tung hô Chúa Cha nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần.
Lời tung hô này kết thúc kinh Nguyện Thánh Thể và trở
nên lời kinh kết thúc mẫu mực cho các lời kinh
trong Giáo Hội. Chỉ ḿnh chủ tế đọc kinh
Vinh tụng ca này, sau đó tất cả cộng đoàn tung hô bằng tiếng “Amen”. Trong cách gọi
thông thường hiện nay Vinh tụng ca c̣n mang tên gọi
là kinh Sáng Danh được dùng để kết thúc các lời
kinh hay giờ cầu nguyện của cá nhân hoặc cộng
đoàn. c) Nghi thức
rước lễ: Bắt đầu từ kinh Lạy
Cha đến hết lời nguyện hiệp lễ. Nghi thức này là phần người tín hữu
tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Họ được mời
gọi đến lănh nhận Ḿnh và Máu Chúa Kitô, để
được nuôi dưỡng và đón nhận sự sống
đời đời của Người. i) Kinh Lạy
Cha:
Là lời kinh mà Chúa Giêsu đă dạy các môn đệ cầu
nguyện, đó là kinh chuẩn bị trực tiếp
trước khi chịu Ḿnh Thánh Chúa khi người tín hữu
nài xin: “Xin cho chúng con lương thực hàng ngày”. Họ nài xin lương thực Thánh Thể để
nuôi sống linh hồn. Sau khi mọi người
đọc kinh Lạy Cha xong, vị chủ tế c̣n khai
triển phần cuối của kinh này bằng cách đọc: “Lạy
Cha xin cho chúng con khỏi mọi sự dữ, xin đoái
thương cho những ngày chúng con đang sống
được b́nh an”. Để nhấn mạnh
ḷng cậy trông của dân Chúa vào t́nh thương của
Người trong khi đợi ngày Chúa Kitô trở lại
trong vinh quang. Sau đó kinh Lạy Cha kết thúc bằng
lời tung hô của tất cả cộng
đoàn: “V́ Chúa là Vua uy quyền và vinh hiển muôn đời”. ii) Lời Cầu
b́nh an và cử chỉ chúc b́nh an: Được
xem là dấu chỉ của việc ḥa giải, tha thứ
và hiệp nhất. Giáo Hội luôn ư thức
tham dự Thánh Thể đ̣i hỏi người tín hữu
phải vượt qua chính ḿnh để đến với
anh em. Chúa Kitô dạy các tông đồ
phải làm ḥa với người khác trước khi tiến
dân của lễ. Cách chúc b́nh an là tín hữu bắt tay nhau hoặc cúi đầu chào nhau. iii) Nghi thức
Bẻ bánh:
diễn tả Chúa Kitô là Tấm bánh duy nhất được
ban phát cho muôn người. Tham dự vào Tấm
bánh này là tham dự vào sự sống của Ngài. Đồng
thời cũng kiến tạo nên sự hiệp thông duy nhất
của Thân Ḿnh Ngài là Giáo Hội, sự hiệp thông của
người tín hữu trong Giáo Hội phát xuất từ việc
tham dự vào Thánh Thể Chúa, chứ không do sự chọn
lựa cá nhân và đồng thuận của mỗi chúng ta. iv) Rước
Lễ:
mời gọi mọi người tiến bước
đến lănh nhận Ḿnh và Máu Thánh Chúa. Trước khi
lănh nhận Ḿnh Thánh mỗi người tín hữu kính cẩn
cúi ḿnh sâu để tỏ ḷng tôn kính và thờ lạy Chúa
Kitô hiện diện trong Thánh Thể. Khi Linh mục trao Ḿnh
Thánh và nói “Ḿnh Thánh Chúa Kitô”. Người tín hữu
thưa: “Amen”. Tiếng Amen là lời
tuyên xưng đức tin vào sự hiện diện của
Chúa Kitô trong Thánh Thể. Rồi giáo dân với ḷng kính cẩn
và tôn thờ Chúa đón nhận trên lưỡi một cách
nghiêm trang và tự hạ. Rước lễ xong nên
dành đôi phút thinh lặng để ca ngợi, thờ lạy
và tạ ơn hồng ân Thánh Thể vừa
lănh nhận. d) Nghi thức
kết thúc: Bao
gồm lời chào, phép lành và sai đi rao giảng lời
Chúa bằng câu: “Lễ xong chúc anh chị em đi b́nh
an” là lời mời gọi ơn đi loan truyền
Tin Mừng. Mặc dù Thánh lễ kết thúc qua việc bẻ
bánh, nhưng sứ điệp mời người tín hữu
đón nhận trong Thánh lễ cần được nối
tiếp trong cuộc sống hàng ngày. Sứ mạng
làm chứng và sống Tin Mừng của Chúa Kitô được
làm mới lại mỗi khi chúng ta tham dự Thánh lễ. References
· Catechism of the Catholic Church, 1324 · The Encyclopedia of Christian Civilization, "Badarak (Patarag)" · Missa here is a Late Latin substantive corresponding to the word missio in classical Latin. · · Pope Benedict XVI, Sacramentum caritatis, 51 · "General Instruction of the Roman Missal". www.vatican.va. 2003. pp. 7–8. Retrieved 2017-04-29. · "Sacrosanctum concilium". www.vatican.va. Retrieved 2017-04-29. · Vatican City: Libreria Editrice Vaticana, 1994, ISBN 1-55586-513-5. · "The Missal published by Paul VI and then republished in two subsequent editions by John Paul II, obviously is and continues to be the normal Form – the Forma ordinaria – of the Eucharistic Liturgy" Letter of Pope Benedict to the Bishops, 7 July 2007, paragraph 5 · General Instruction of the Roman Missal (GIRM), paragraph 44 · 1 Corinthians 10:17 · "Catechism of the Catholic Church - IntraText". www.vatican.va. Retrieved 2017-04-29. · "The antiphon with its Psalm from the Graduale Romanum or the Graduale Simplex, or another chant ... whose text has been approved by the Conference of Bishops". GIRM, paragraph 48 · "THE ORDER OF MASS" (PDF). International Committee on English in the Liturgy, Inc. 2010. Retrieved November 19, 2011. V071817 |