Một Đại Đức chứng kiến

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

bị thiêu đốt trong hỏa ngục

Paulu, người được diễm phúc

trở thành con cái Chúa

LGT: Lời chứng thực của Athet Pyan Shinthaw Paulu, một nhà sư ở Miến Điện, đă nh́n thấy địa ngục và đă xin rửa tội để trở thành một người Công giáo.

Có nhiều phản ứng khác nhau khi nghe chuyện này. Một số người cảm động, một số nghi ngờ, số khác chế giễu. Trong khi một số đầy giận dữ. Hcho rằng những lời này là tiếng gầm thét của kẻ điên loạn hoặc là một sự lừa dối. Một số người nói rằng vị tu sĩ trong câu chuyện này chưa thực sự chết chỉ bị hôn mê. Và những ǵ anh thấy và nghe là do cơn sốt đưa đến ảo tưởng. Dù bạn nghĩ thế nào đi nữa, sự kiện là những biến cố trong câu chuyện đă biến đổi vị tu này tận gốc rễ khiến cho cuộc đời của anh thay đổi hoàn toàn. Anh đă can đảm và không sợ hăi khi kể lại câu chuyện của đời ḿnh dù phải trả một giá rất cao, kể cả bị tù đày hay thiệt mạng. Anh đă bị người nhà, bạn hữu, đồng nghiệp khinh bỉ và đối diện với sự đe dọa giết chết nếu không chấm dứt. Động cơ nào khiến người đàn ông này liều ḿnh từ bỏ mọi sự? Dù chúng ta tin hay không, th́ câu chuyện của vị tu cũng đáng cho chúng ta lắng nghe và suy nghĩ. Liệu chúng ta có thể bảo đảm rằng tất cả những điều này đă xảy ra không? Không. Nhưng chúng tôi cảm thấy đáng cho chúng ta nghe câu chuyện bằng chính tiếng nói của anh.

 

Những năm đầu đời

Tôi tên Athet Pyan Shinthaw Paulu. Tôi ở tại nước Miến Điện. Tôi hân hạnh được chia sẻ lời chứng của tôi về những ǵ đă xảy ra cho tôi. Nhưng trước hết, tôi xin nói qua về cuộc đời của tôi.

Tôi sinh năm 1958 tại làng Bogale, thuộc B́nh Nguyên Irrawaddy của miền nam Miến Điện. Cha mẹ tôi là người rất sùng kính Phật giáo. Ông đặt tên tôi là Thitpin (nghĩa là “cây”). Cuộc sống của tôi rất đơn giản tại nơi tôi sinh ra lớn lên. Khi được 13 tuổi, tôi nghỉ học và bắt đầu làm việc trên một thuyền đánh cá. Chúng tôi bắt được nhiều cá và đôi khi c̣n bắt được tôm ở sông ng̣i trong vùng Irrawaddy. Khi lên 16 tuổi, tôi là trưởng của chiếc thuyền đó. Vào lúc này, tôi sống ở vùng thượng lưu Mainmahlagyon Island, nằm về phía bắc của Bogale, nơi tôi sinh ra. Vùng này khoảng 100 dặm về phía tây nam của Yangon (Rangoon) thủ đô Miến Điện.

Vào một ngày nọ khi tôi 17 tuổi, chúng tôi bắt được rất nhiều cá trong lưới.quá nhiều nên một con cá sấu khổng lồ tấn công chúng tôi. Nó bơi theo thuyền của chúng tôi và cố gắng tấn công. Chúng tôi rất hoảng sợ. V́ vậy chúng tôi chèo thuyền nhanh vào bờ. Con cá sấu theo sau chúng tôi và dùng đuôi của nó đập nát thuyền. Mặc dầu không ai bị chết nhưng sự tấn công đă ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống tôi. Tôi không muốn đi đánh cá nữa chiếc thuyền nhỏ của chúng tôi đă bị ch́m. Tối đó chúng tôi về làng bằng một chiếc thuyền khác.

Không lâu sau đó, tôi theo cha tôi đến thành phố Yangon. Năm 18 tuổi, tôi được gởi vào một tu viện Phật giáo để làm tu sĩ tập sự. Hầu hết các cha mẹ ở Miến Điện đều muốn gởi con trai vào một tu viện Phật giáo. Ít ra là một thời gian v́ họ cho đó là một vinh dự.

Tu viện Phật giáo nơi Paulu tập sự

 

Môn đệ nhiệt thành của Đức Phật

Vào năm 1977, khi tôi được 19 tuổi 3 tháng, tôi trở thành một tu sĩ thực thụ. Vị sư trưởng tu viện của tôi cho tôi một pháp danh, đây là phong tục của nước tôi. Bấy giờ tôi được gọi là U Nata Pannita Ashinthuriya. Khi trở thành tu sĩ, chúng tôi không c̣n dùng tên cha mẹ đặt lúc mới sanh. Tên của tu viện nơi tôi sống là Mandalay Kyaikasan Kyaing. Tên của vị sư trưởng là U Zadila Kyar Ni Kan Sayadaw (U Zadila là tước hiệu của ông như Ḥa thượng). Ngài là tu sĩ phật giáo nổi tiếng nhất tại Miến Điện lúc bấy giờ. Mọi người đều nghe danh ngài. Ngài được mọi người kính trọng và tôn là một Giáo sư Vĩ đại. Năm 1983, th́nh ĺnh ngài qua đời v́ tai nạn giao thông. Sự qua đời của ngài làm mọi người sửng sốt. Lúc ấy tôi đă thành tu sĩ được 6 năm, tôi cố sức để trở thành tu sĩ giỏi nhất và tuân theo mọi giới luật của nhà Phật. Đến một giai đoạn tôi đi vào nghĩa trang gần chỗ tôi ở để được thanh tịnh và suy tư. Vài tu sĩ muốn biết những chân lư về đức Phật cũng làm như tôi. Một số đi sâu vào rừng để sống cuộc đời nghèo khổ và từ bỏ chính ḿnh. Tôi t́m cách từ bỏ những tư tưởng ích kỷ và dục vọng để tránh sinh lăo bệnh tử và muốn phá vỡ ṿng luân hồi trên trần gian này. Tôi cố đạt cho được sự b́nh an trong tâm hồn và sống ư thức. Thậm chí khi một con muỗi sa vào cắn, tôi cứ để cho nó hút máu mà không đập.

Trải qua nhiều năm tôi phấn đấu để trở thành tu sĩ tốt nhất và không làm hại bất kỳ sinh vật nào. Tôi dành thời gian học sách nhà Phật. Cuộc đời tu sĩ của tôi cứ tiến lên cho đến một ngày tôi bị đau rất nặng. Lúc đó tôi ở Mandalay và được đưa đến bệnh viện để chữa trị. Bác sĩ đă làm một số xét nghiệm trên tôi và cho biết tôi vừa bị sốt vàng, vừa bị sốt rét cùng một lúc! Sau một tháng trong bệnh viện, sức khỏe của tôi tệ hại hơn. Các bác sĩ bảo rằng không c̣n cơ hội cho tôi phục hồi và họ cho tôi xuất viện để về nhà chờ chết. 

Một thị kiến làm thay đổi cuộc đời

Sau khi xuất viện, tôi trở lại tu viện. Tại đấy các anh em đồng môn chăm sóc tôi. Càng ngày tôi càng yếu, hôn mê và lặng lẽ từ giă trần gian. Về sau tôi được người ta cho biết tôi đă chết ba ngày. Tim tôi ngừng đập và thân thể tôi bị thối rữa. Người ta chuẩn bị tẩm liệm và làm các nghi lễ tẩy uế theo truyền thống Phật giáo.

Dù thân thể tôi bị hủy hoại nhưng tâm trí và tâm linh của tôi lại rất nhạy bén. Tôi nhớ lại tôi đang ở trong một trận băo lớn. Cơn gió rất mạnh san bằng toàn thể cảnh vật cho đến khi không c̣n một cây hoặc bất kỳ thứ ǵ xót lại ngoài một khoảnh đất trống trơn. Tôi đi nhanh qua b́nh nguyên này mà chẳng thấy ai ngoài tôi ra. Sau một lúc tôi băng qua một con sông, bên kia bờ sông một hồ lửa rất vĩ đại và vô cùng khủng khiếp.

Trong Phật giáo, chúng tôi không có ư niệm về một nơi giống như vậy. Ban đầu tôi rối trí và không biết đó là địa ngục cho đến khi tôi nh́n thấy Yama (Yama là tên đặt cho vua của địa ngục trong nhiều nền văn hóa Á châu). Mặt của vua này giống như mặt sư tử, nhưng chân của ông giống như chân của rắn. Ông có một số sừng. Mặt ông dữ tợn làm tôi vô cùng sợ hăi. Tôi hỏi tên ông và được ông trả lời, “Ta là vua của địa ngục. Kẻ hủy diệt”.

Những ai không tin vào Chúa Giêsu Kitô th́

bị phạt xuống hỏa ngục đời đời kiếp kiếp

 

Hồ lửa thật khủng khiếp 

Vua của địa ngục bảo tôi nh́n vào hồ lửa. Tôi nh́n và thấy chiếc áo choàng màu của tu sĩ Phật giáo Miến Điện. Tôi nh́n kỹ hơn và thấy đầu trọc của một người đàn ông. Khi tôi nh́n vào mặt ông, tôi nhận ra đó là U Zadila Kyar Ni Kan Sayadaw (Vị tu sĩ nổi tiếng đă chết trong tai nạn lưu thông năm 1983). Tôi hỏi vua địa ngục v́ sao người lănh đạo trước kia của tôi lại bị tra tấn trong hồ nầy. Tôi nói, “Tại sao Ḥa thượng ở trong hồ lửa nầy? Ngài là một Giáo sư lỗi lạc. Thậm chí ngài ra một cuộn băng mang tên “Bạn là con người hay là con chó?” giúp cho hàng vạn người hiểu rằng làm người có giá trị rất lớn so với súc vật. Vua của địa ngục trả lời, “Đúng, ông ta là một Giáo sư lỗi lạc nhưng ông ta không tin Chúa Giêsu Kitô. Đó là lư do ông ta bị đày xuống địa ngục”.

Sau đó vua địa ngục bảo tôi nh́n vào một người khác ở trong hồ lửa. Tôi nh́n thấy một người tóc rất dài vắt ngang qua bên trái đầu của ông. Ông cũng mặc áo choàng dài. Tôi hỏi vua địa ngục, “Ông này là ai?” Hắn trả lời, “Đây là Đấng mà ngươi tôn thờ: Gautama (Phật Thích Ca). Tôi kinh hoàng nh́n thấy Gautama ở địa ngục. Tôi căi lại, “Gautama là Đấng giác ngộ, đă đạt chánh quả. Tại sao Ngài lại chịu khốn khổ trong hồ lửa?” Vua địa ngục trả lời, “Cho dù ông ta đạo đức đến đâu không tin Chúa Giêsu th́ ông ta vẫn bị phạt nơi này”.

Sau đó tôi thấy một người khác, giống như mặc bộ quân phục. Ông ta có một vết thương lớn ở ngực. Tôi hỏi, “Ông này là ai?” Vua địa ngục bảo, “Đây là Aung San, Lănh tụ Cách mạng của Miến Điện. Aung San ở đây v́ ông ta ngược đăi và giết nhiều người Kitô hữu. Nhưng điểm chính là v́ ông không tin vào Chúa Giêsu Kitô”. Ở Miến Điện, người ta thường nói, “Người lính không bao giờ chết, họ cứ sống măi”. Vua địa ngục nói với tôi rằng những quân đoàn của địa ngục có câu tục ngữ, “Những người lính không bao giờ chết, nhưng họ đi xuống địa ngục đời đời”.

Tôi nh́n thấy một người khác ở trong hồ lửa. Ông ta rất to lớn và mặc đồ trận. Ông ta cầm một thanh gươm và một cái khiêng. Người này có một vết thương trên trán. Người này cao lớn hơn bất kỳ người b́nh thường nào mà tôi từng thấy. Chiều cao của ông bằng sáu lần chiều dài từ cùi chỏ của người nam đo ra chót ngón tay khi duỗi thẳng cộng với một gang tay. Vua địa ngục nói, “Người này tên là Gô-li-át. Hắn bị phạt xuống hỏa ngục v́ hắn phỉ báng Đức Chúa Trời và tôi tớ Chúa là Đa-vít”. Tôi bối rối v́ không biết Gô-li-át và Đa-vít là ai. Vua địa ngục nói, “Gô-li-át được ghi trong Kinh thánh. Bây giờ ngươi không biết, nhưng khi trở thành Kitô hữu, ngươi sẽ biết”.

Sau đó tôi được đưa đến một nơi gồm cả người giàu lẫn người nghèo đang chuẩn bị cho bữa ăn tối. Tôi hỏi, “Ai nấu thức ăn cho những người này?” Vua địa ngục trả lời, “Người nghèo th́ tự họ nấu ăn, c̣n người giàu th́ thuê người khác nấu cho họ”. Khi thức ăn được chuẩn bị xong th́ người giàu ngồi xuống ăn. Khi họ bắt đầu ăn th́ khói mù mịt bay lên. Người giàu ăn lấy ăn để hầu làm dịu lương tâm của họ. Họ phải thở khó khăn lắm v́ khói mù mịt. Họ phải ăn nhanh v́ sợ hao tiền. Tiền bạc được coi là thần hộ mạng của họ.

 

Người phạm tội trọng bị thiêu

sống trong vạc dầu xôi

Một vua khác của địa ngục đến gần tôi. Tôi cũng thấy một con quỉ chịu trách nhiệm đút than vào bếp dưới hồ lửa để làm cho nóng thêm. Con quỉ này hỏi tôi, “Mày có muốn vào hồ này không?” Tôi trả lời, “Không, tôi đến để quan sát thôi”. Vẻ mặt của con quỉ khều lửa này rất dữ tợn. Nó có mười cái sừng trên đầu, một cây giáo trên tay và bảy lưỡi dao bén nhọn từ đầu cây giáo. Con quỉ này nói với tôi, “Mày nói đúng. Mày đến đây chỉ để quan sát thôi v́ ta không thấy tên mày ở đây”. Nó nói, “Bây giờ hăy trở về nơi trước khi ngươi đến đây”. Nó chỉ cho tôi về hướng đồng bằng hoang vu mà tôi đă đi qua trước khi đến hồ lửa này”. 

Một quyết định

Tôi đi bộ rất xa cho đến khi chân tôi chảy máu. Tôi bị nóng bỏng và đau đớn dữ dội. Khi tôi đi bộ khoảng ba giờ th́ đến một con đường rộng. Tôi đi trên đường rộng này một lúc cho đến một ngă ba. Một nhánh đi về phía trái rất rộng. Một nhánh nhỏ hơn đi về phía bên phải. Ở chỗ ngă ba có một bảng hiệu nói rằng con đường bên trái dành cho những người không tin nơi Đức Giêsu. Con đường bên phải dành cho những người tin vào Chúa Giêsu Kitô. Tôi muốn biết con đường rộng dẫn đến đâu nên tôi bắt đầu đi. Có hai người đàn ông đi trước tôi khoảng 300 thước. Tôi cố gắng đi nhanh để bắt kịp họ nhưng dù tôi rán sức đến đâu cũng không theo kịp. Do đó tôi quay lại ngă ba. Tôi tiếp tục nh́n hai người đàn ông đó đi xa dần. Lúc họ đến cuối đường th́ th́nh ĺnh rơi xuống. Hai người đàn ông này hét to khủng khiếp! Tôi cũng hét lên khi thấy những ǵ xảy ra cho họ. Tôi biết rằng con đường rộng sẽ chấm dứt trong sự nguy hiểm kinh hoàng.

Hỏa ngục, nơi dành cho những ai

phủ nhận ơn cứu chuôc của Chúa

 

Nh́n lên Thiên đàng

Tôi bước đi trên con đường của những người tin theo Chúa Giêsu. Sau khi đi khoảng một giờ th́ mặt đường đổi thành vàng ṛng. Nó trong suốt đến nỗi khi nh́n xuống có thể soi gương được. Sau đó tôi thấy một người đàn ông đứng trước mặt tôi. Ông mặc áo choàng trắng. Tôi cũng nghe người ta hát rất hay. Ồ, quá tuyệt vời và tinh khiết! Đầy ư nghĩa và hay hơn nhiều so với những buổi thờ phượng trong những nhà thờ trên mặt đất. Người đàn ông mặc áo trắng bảo tôi cùng đi với ông. Tôi hỏi ông tên ǵ nhưng ông không trả lời. Sau khi hỏi đến sáu lần th́ ông nói, “Ta là người giữ ch́a khóa cửa thiên đàng. Thiên đàng là nơi rất đẹp, rất tuyệt vời. Bây giờ ngươi không thể vào đây, nhưng nếu ngươi tin vào Chúa Giêsu Kitô th́ ngươi có thể vào sau khi cuộc sống trên trần gian chấm dứt”. Về sau tôi biết tên của người đàn ông là Phêrô.

Phêrô bảo tôi ngồi xuống và chỉ cho tôi một chỗ ở phía bắc. Ngài nói, "Nh́n về hướng bắc sẽ thấy Đức Chúa Trời tạo dựng một người đàn ông". Đức Chúa Trời phán với một thiên thần, “Chúng ta hăy dựng nên một người đàn ông”. Thiên thần năn nỉ Đức Chúa Trời và thưa, “Xin Ngài đừng dựng nên người đàn ông. Người ấy sẽ làm điều sai trái và làm phiền ḷng Ngài”. (Nghĩa đen theo tiếng Miến Điện là người ấy sẽ làm Ngài mất mặt). Nhưng Đức Chúa Trời vẫn tạo dựng một người đàn ông và đặt tên là “Ađam”.

Ghi chú: Người Phật giáo không tin Đức Chúa Trời dựng nên trụ loài người. vậy lời nói đó gây tác động lớn trên vị tu sĩ.

Image result for heaven

Thiên Chúa chào mừng một

Tân Hội Viên của nước trời

 

Trở về mặt đất với tên mới

Sau đó Phêrô nói, “Bây giờ hăy đứng dậy và trở lại chỗ trước khi ngươi đến đây. Hăy nói với những người thờ phượng Phật Thích Ca và những người thờ lạy h́nh tượng. Nói với họ rằng họ phải xuống địa ngục nếu không thay đổi. Những người xây dựng chùa chiền và thần tượng cũng sẽ xuống địa ngục. Những người cúng tiền cho các tu sĩ để lấy công quả cũng sẽ xuống địa ngục. Tất cả những người cầu nguyện với các tu sĩ và gọi họ bằng “Pra” (tước hiệu tôn kính dành cho tu sĩ) cũng xuống địa ngục. Tất cả những người cầu kinh và “ban sự sống” cho h́nh tượng sẽ xuống địa ngục. Tất cả những người không tin Chúa Giêsu Kitô sẽ xuống địa ngục”. Phêrô bảo tôi quay về trái đất và làm chứng về những ǵ tôi đă thấy. Ngài nói, “Ngươi phải khai bằng tên mới của ngươi. Từ nay trở đi, ngươi được gọi là Athet Pyan Shinthaw Paulu nghĩa "Phaolô Trở Lại Cuộc Sống". 

Tôi không muốn quay lại trái đất mà muốn lên thiên đàng. Các thiên thần mở ra một cuốn sổ. Trước hết họ t́m tên tôi hồi c̣n nhỏ (Thitpin) nhưng không thấy. Rồi họ t́m tên mà tu viện đặt cho tôi khi làm tu sĩ Phật giáo (U Nata Pannita Ashinthuriya), nhưng họ cũng không thấy. Rồi Phêrô bảo, “Tên của ngươi chưa được viết vào đây, ngươi phải trở lại trần gian làm chứng về Chúa Giêsu cho những tín đồ Phật giáo”.

Tôi trở lại con đường bằng vàng. Một lần nữa tôi được nghe hát rất hay, loại nhạc mà tôi chưa được nghe bao giờ. Phêrô cùng đi với tôi cho đến giờ tôi phải quay về mặt đất. Ngài chỉ cho tôi một cái thang từ trên cao xuống bầu trời. Thang này không chạm mặt đất nhưng dừng lại ở giữa bầu khí quyển. Trên thang này tôi thấy rất nhiều thiên thần, một số đi lên, một số đi xuống. Họ rất bận rộn. Tôi hỏi Phêrô, “Họ là ai?” Ngài trả lời, “Họ là những sứ giả của Đức Chúa Trời. Họ đang tŕnh thiên đàng tên của những người đă tin vào Chúa Giêsu và tên của những người không tin Đức Kitô. Sau đó Phêrô bảo đến lúc tôi phải trở về.

Ma! ma! ma!

Điều kế tiếp mà tôi nhận ra là tiếng khóc. Tôi nghe mẹ tôi khóc lớn, “Con ơi con, sao con bỏ cha mẹ lại đây?” Tôi cũng nghe nhiều người khóc. Tôi nhận thấy ḿnh đang nằm trong một quan tài. Tôi bắt đầu cử động. Cha mẹ tôi la lớn, “Nó sống lại! Nó sống lại!” Những người khác đứng xa hơn không tin cha mẹ tôi. Sau đó, tôi vịn tay lên thành quan tài và ngồi thẳng dậy. Nhiều người sửng sốt và kinh khiếp. Họ la lên, “Ma! ma! ma!” và bỏ chạy bán sống bán chết.

Những người c̣n lại chết điếng và run rẩy. Tôi nhận ra ḿnh đang ngồi trên đống nước nhờn và thối, là chất nước trong thân thể chảy ra, chắc khoảng ba tách rưỡi nước nhờn. Đó là loại nước từ bao tử và những bộ phận bên trong của tôi chảy ra khi tôi nằm trong quan tài mấy ngày. Đây là lư do người ta biết rằng tôi thực sự đă chết. Bên trong quan tài có một loại giấy ni-lông dán chặt vào gỗ. Lớp ni-lông này giữ cho nước thối của tử thi không rỉ ra.

Về sau tôi biết rằng chỉ vài phút nữa là người ta đem xác tôi đi thiêu. Tại Miến Điện, người chết được đặt trong quan tài, đóng nắp lại rồi thiêu cả ḥm. Cha mẹ tôi được phép nh́n mặt tôi lần cuối trước khi đóng nắp quan tài. Đó là lúc tôi sống lại. Nếu không trở lại kịp th́ sau vài phút, người ta sẽ đóng nắp và đem đi thiêu.

Lập tức tôi bắt đầu giải thích những ǵ tôi đă thấy và đă nghe làm người ta rất kinh ngạc. Tôi nói với họ về những người tôi đă thấy trong hồ lửa và bảo họ rằng chỉ có Kitô giáo mới đạo thật. Và rằng tổ phụ của chúng ta đă bị lừa hàng ngàn năm nay. Tôi nói với họ rằng mọi điều chúng ta tin đều giả dối. Người ta rất kinh ngạc v́ họ biết tôi tu sĩ và nhiệt thành với Đức Phật như thế nào.

Ở Miến Điện, khi một người chết, tên và tuổi được viết bên cạnh quan tài. Khi một tu sĩ chết, th́ tên của thầy tu, tuổi và cả số năm phục vụ làm tu sĩ cũng được viết bên cạnh quan tài. Tôi đă được người ta ghi rằng đă chết, nhưng bây giờ quí vị có thể nh́n thấy tôi đang sống!

Lời kết

“Phaolô Trở Lại Cuộc Sống” nên anh tiếp tục làm chứng về Chúa Giêsu Kitô. Các linh mục Miến Điện nói với anh rằng anh đă làm chứng nhân cho hàng trăm tu sĩ Phật giáo đến với Chúa Giêsu. Lời chứng của anh th́ rơ ràng và không thể tranh căi. V́ thế, sứ điệp của anh là làm chứng nhân cho Chúa Giêsu Kitô và tuyên xưng Ngài là Con Đường Duy Nhất dẫn đến thiên đàng. Dù bị chống đối dữ dội nhưng những trải nghiệm của anh th́ quá chân thật nên đức tin của anh không bị lay chuyển. Sau nhiều năm làm tu sĩ Phật giáo, một người nghiêm túc theo Đức Phật Thích Ca mà bây giờ rao giảng phúc âm của Đức Chúa Trời. Anh khuyên những tu sĩ khác từ bỏ Phật giáo và những h́nh tượng giả dối mà trở về cùng Thiên Chúa.

Trước khi anh bị bệnh và bị chết, không có biểu hiện nào cho thấy anh có khái niệm ǵ về Kitô giáo. Mọi sự anh học được th́ rất mới anh tiếp nhận từ ba ngày nằm trong quan tài.

Trong nổ lực rao giảng nước Chúa, anh phân phát video và cassette về câu chuyện của anh đến cho nhiều người. Cảnh sát và nhà cầm quyền Phật giáo tại Miến Điện đă làm mọi sự để thu lại những băng này để tiêu hủy. Lời chứng mà quí vị đọc được trên đây đă được dịch từ một trong những cuộn băng đó. Được biết hiện nay nếu công dân Miến Điện nào có những băng này th́ rất nguy hiểm cho họ.

Lời chứng của anh đă đưa anh vào tù nhiều hơn một lần khi nhà cầm quyền không thể làm cho anh câm miệng. Sau khi được thả ra, anh tiếp tục làm chứng về những điều anh đă thấy và đă nghe. Hiện nay anh ở đâu? Không ai biết!. Một nguồn tin cho biết có thể anh bị tù hay bị giết. Nguồn tin khác lại nói anh đă được tự do và đang tiếp tục công việc rao giảng.

 

Bài viết được chuyển dịch từ:

One Man Sees Buddha In HELL, By Michael, on October 5th, 2009

http://lifeafterdeathheavenandhell.com/archives/one-man-sees-buddha-in-hell

 

===========================================

 

Image result for paul apostle

'Chúa Giêsu Phục Sinh' làm Saulô ngă

ngựa trên đường lùng bắt người Kitô giáo

Phaolô ban đầu có tên Saulô. Ông có quốc tịch Do thái và La mă và được cho là bậc thức giả. Ông đứng đầu những cuộc bách hại người Kitô hữu thời sơ khai và chủ động trong cuộc tử đạo của Thánh Stephanô. Trên đường đi Damascus để bách hại người tín hữu, 'Chúa Giêsu Sống Lại' đă làm cho ông ngă ngựa và mù mắt.

Sau khi chịu phép thánh tẩy, ngài được sáng mắt và đổi tên thành Phaolô. Ngài là một trong những vị đại thánh của giáo hội Công giáo. Tư tưởng của ngài quan trọng và có ảnh hưởng nhất trên tất cả các thánh từ trước đến nay. Nhiều bài viết của ngài được dùng làm Kinh thánh và quan niệm của ngài đă ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển của Giáo Hội  từ thế kỷ thứ nhất cho đến hiện tại [1]. Ngày nay, những bức thư của Phaolô vẫn tiếp tục làm căn bản cho nền thần học, thờ phượng, và đời sống mục vụ trong các truyền thống Công giáo và Tin lành ở phương Tây, và các truyền thống Chính thống của phương Đông [2]. Ảnh hưởng của Phaolô hướng dẫn tư tưởng và thực hành trong học thuyết Kitô được mô tả là "thâm thúy v́ tính chất phổ biến sâu rộng".

Thánh Phaolô làm bản mệnh cho nhiều giới từ các nhà truyền giáo, nhà thần học, nhà văn, nhà báo, học giả, tác giả cho đến giới công nhân và thợ thuyền.

Kỳ diệu thay việc làm của Thiên Chúa!

 

 

Ref:

[1] http://www.catholic.org/saints/saint.php?saint_id=91

 

[2]  Aageson, James W. Paul, the Pastoral Epistles, and the Early Church. Hendrickson Publishers, 2008. ISBN 978-1-59856-041-1 p.1

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

.